ĐĂNG TIN
logo
Online:
Visits:
Stories:
Profile image
Tác giả: ZeroEnergyVN
Trang tin cá nhân | Bài đã đăng
Lượt xem

Hiện tại:
1h trước:
24h trước:
Tổng số:
AMARTYA SEN, Lương tâm của kinh tế
Sunday, August 25, 2013 13:07
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.


Nghiên cứu về khoa học huyền bí, tâm linh, ufo, chính trị, tôn giáo

***
Amartya Sen, câu chuyện về nhà Nobel kinh tế của những người bần cùng, người
gần gũi với những lo âu cơ bản nhất của con người (cơm ăn, áo mặc, sự công
bằng, & lương tâm xã hội), và người tiếp cận vấn đề với cường độ trí thức
cực kỳ trung thực và siêu việt. ***



Đa số người ngoài ngành (và cả nhiều người trong ngành) thường nghĩ đến kinh tế như một khoa học
giúp hoạch định những chính sách để quản lý, để phát triển, để tăng trưởng, để
bình ổn. Những người có thiên kiến này sẽ ngạc nhiên khi đọc AMARTYA SEN, nhà
kinh tế gốc Ấn Độ, người được Ngân hàng Quốc gia Thụy Điển trao tặng giải NOBEL
KINH TẾ NĂM 1998. Ông là người châu Á đầu tiên được Nobel về ngành này.


Tuy đã đến tuyệt đỉnh
danh vọng, Sen được ngưỡng mộ không chỉ vì những phần thưởng cao quý, nhưng còn
vì kiến thức đa diện và quảng bác của ông, và vì LƯƠNG TRI CỦA ÔNG ĐỐI VỚI
NHỮNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI, không những của quê hương ông mà còn của cả những quốc gia
đang phát triển. Được trọng vọng trong xã hội trí thức cao nhất ở Tây phương
(ông giảng dạy ở Cambridge từ năm 1971, và cũng có nhiều năm ở Harvard), SEN
KHÔNG BAO GIỜ NGƯNG ƯU TƯ VỀ PHÚC LỢI CỦA NHỮNG NGƯỜI BẦN CÙNG. Là một nhà kinh
tế với kỹ năng toán logic vào hạng thượng thừa, ông cũng thấm nhuần triết học,
Tây lẫn Đông. Là người có những đóng góp nền tảng cho kinh tế học hiện đại, Sen
cũng hoài nghi về nhiều mặt của thứ kinh tế học này.


*

Từ nhỏ, Sen đã chứng
kiến cũng như trải nghiệm những tai họa khó tưởng tượng. Năm 1943, khi Sen vừa
lên mười, Bengal (quê ông, một tỉnh vùng đông bắc Ần Độ, nơi có mật độ dân số
thuộc hạng cao nhất thế giới) bị một nạn đói khủng khiếp. Năm 19 tuổi, ông bị
ung thư vòm miệng, và đã điều trị bằng xạ trị (rất thô sơ lúc ấy ở Ấn Độ) vô
cùng đau đớn. (Hậu quả giai đoạn xạ trị này vẫn còn đến ngày nay: xương Sen bị
dễ gãy, răng cỏ của ông đều hư). Như Sen kể lại sau này, chính sự đau đớn ấy đã
cho ông mối đồng cảm sâu xa với những người cùng khổ. Ung thư làm ông cảm thấy
bị ô nhiểm, loại ra ngoài xã hội, bất lực. Trước khi bị bệnh, những gì ông
chứng kiến chung quanh đã làm ông kinh hoàng, nhưng dù sao vẫn là xảy ra cho
“kẻ khác”. Chính ung thư của ông đã khiến Sen đồng cảm trọn đời với những người
thấp cổ bé miệng, bị thiếu thốn, bệnh tật, đớn đau.


Nhưng cũng nhờ vượt
qua được cơn bệnh hiểm nghèo ấy mà Sen đặt cho mình những mục tiêu mới. Trở lại
trường, ông là một sinh viên ưu tú hàng đầu, đoạt tất cả mọi giải thưởng cao
quý nhất, và được học bổng sang đại học Cambridge danh giá tột bực nước Anh.


*


Những năm đầu trong sự
nghiệp, vào thập kỷ 1960, Sen chuyên về kinh tế học phát triển và có nhiều đóng
góp đáng kể vào tiến trình công nghiệp hoá của Ấn Độ. Quyển sách đầu tay của
Sen (Sự chọn lựa kỹ thuật, 1960) chỉ trích thể chế kế hoạch của Ấn Độ lúc ấy.
Ông nhấn mạnh rằng có những định luật kinh tế bất biến mà mọi quốc gia đều phải
tuân theo. Không kế hoạch nào, dù khôn khéo đến đâu, có thể đi ngược những định
luật ấy.


Nhưng sau đó thì Sen
bắt đầu suy nghĩ về những vấn để căn bản hơn. Khi tìm hiểu về NẠN ĐÓI Ở BENGAL
(mà số người chết có thể đến 4 triệu), ông khám phá một điều bất ngờ: Nạn đói
ấy không phải vì mùa màng thất bát như vẫn tưởng nhưng VÌ CHẾ ĐỘ CHUYÊN CHẾ lúc
ấy! Đúng là người ta chết vì không có thực phẩm, nhưng họ không có thực phẩm
chẳng phải vì cả nước không đủ thực phẩm cho mọi người, nhưng vì họ thất
nghiệp, không có tiền mua (thêm vào đó là tình trạng lạm phát). Điều hệ trọng
nhất là họ không có cách gì kêu ca được vì không ai đại diện cho họ, mà báo chí
cũng thiếu tự do, do đó nhà nước không bị một áp lực nào để lo cho những người
cùng khổ, thấp cổ bé miệng, ấy. Để kiểm chứng giả thuyết của mình, Sen tìm hiểu
nguyên nhân nạn đói ở những nước khác, nhất là ở châu Phi, thì hầu hết cũng là
vì XÃ HỘI THIẾU DÂN CHỦ: thực phẩm không thiếu cho toàn xã hội, nhưng chính sự
phân bố bất bình đẳng đã khiến hàng triệu người chết đói.


Sen là một trong những
kinh tế gia tiên phong chỉ trích quan niệm phổ thông là có thể dùng GDP đầu
người để đo lường phúc lợi xã hội. Sen viện dẫn những lý luận triết học từ
Aristotle cỗ xưa, qua Hayek, và Rawls hiện đại để khẳng định rằng THƯỚC ĐO CỦA
MỘT “XÃ HỘI TỐT” LÀ TỰ DO, CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ SỰ THỊNH VƯỢNG VẬT CHẤT. Chính xác
hơn, sự phồn vinh vật chất chỉ là điều đáng mong muốn như một phương tiện thực
hiện tự do cho con người (căn bản nhất là tự do khỏi đói khát, bệnh tật). Sen
khẳng định: tự do vừa là mục tiêu tối hậu, vừa là thành tố để phát triển kinh
tế. Theo ông, những mục tiêu mà các nhà kinh tế thường cho là tối hậu: tăng
trưởng kinh tế, tiến bộ công nghệ, ngay cả hiện đại hoá, phải được đánh giá bởi
mức độ đóng góp của chúng vào tự do của con người.


*


Từ đầu thập niên 1970,
Sen quay sang một hướng nghiên cứu mới, về lý thuyết phúc lợi xã hội, một ngành
trong kinh tế học cực kỳ trừu tượng và lý thuyết. Chính trong lĩnh vực này mà
Sen để lại dấu ấn khó phai.


Đặc điểm của LÝ THUYẾT
TỔNG QUÁT VỀ PHÚC LỢI XÃ HỘI CỦA SEN là sự kết hợp quan tâm truyền thống của kinh
tế học đối với mức sống vật chất và quan tâm truyền thống của triết học đối với
tự do cá nhân và sự công bằng.


Nên nhắc lại rằng vào
hai thập kỷ 1930-1940, những người theo chủ nghĩa tự do (libertarian) ở phương
Tây thường quan ngại rằng phương Tây sẽ bỏ những cam kết theo đuổi chủ nghĩa tự
do chính trị để theo đuổi an toàn kinh tế. Kế thừa truyền thống này, Sen lo
ngại rằng, ở thế hệ tiếp theo, Ấn Độ và các nước đang phát triển đã hi sinh dân
chủ để có được tăng trưởng kinh tế. Từ những nhận xét ấy, Sen đặt ra câu hỏi
thật căn bản: Làm thế nào để giải quyết những xung khắc giữa những hành động xã
hội (social action), chẳng hạn như để phát triển kinh tế, và giá trị cá nhân
(individual rights) mà những người theo chủ nghĩa tự do cho là độc tôn.


Sen nêu ra BA CÂU HỎI.
Thứ nhất, chọn lựa của một xã hội có phản ảnh sự chọn lựa của những cá nhân
trong xã hội ấy không? Thứ hai, quyền tự do cá nhân có thể dung hoà với phúc
lợi kinh tế không? Và thứ ba, lấy gì để làm thước đo mức độ công bằng của một
xã hội? Đây là những câu hỏi cực kỳ “hóc búa” chứ không dễ như nhiều người
tưởng, nhất là khi lời giải đáp phải thoả mãn một số định đề logic tối thiểu.


Vào đầu những năm
1960, khi Sen đi tìm giải đáp cho những câu hỏi ấy thì có hai luồng tư tưởng,
dù khác nhau nhưng đều cho rằng sự xung khắc ấy không thể dung hoà được. Một
trường phái, mà lãnh tụ là nhà kinh tế Friedrich Hayek, thì cho rằng không thể
tin vào nhà nước, vì nhà nước sẽ bị một nhóm chuyên viên khuynh đảo, áp đặt ý
muốn của họ lên ý muốn của những cá nhân khác trong xã hội. Bằng cách thay thế
ý muốn của cá nhân bằng ý muốn của xã hội (như xác định bởi những chuyên viên
này), nhà nước tước đoạt sự tự do cá nhân.


Luồng tư tưởng thứ hai
đến từ một nguồn khá bất ngờ, qua tác phẩm cực kỳ thời thượng của nhà kinh tế
Kenneth Arrow (cuốn “Chọn lựa xã hội và giá trị cá nhân”, 1963). Dùng những
mệnh đề logic chặt chẽ, Arrow chứng minh (“định luật Arrow”) rằng không thể có
một hệ thống bỏ phiếu nào có thể đưa đến một chọn lựa dân chủ. Viện dẫn “định
luật Arrow”, nhiều người đã cho rằng đó là một lý do của chế độ độc tài.


Vì lôgic của Arrow
không thể kiểm chứng bằng thực nghiệm, Sen phản biện Arrow trên chính sân chơi
của Arrow: hoàn toàn trên phạm trù lôgic. Sen vạch ra rằng một trong những tiền
đề của Arrow – rằng không thể so sánh phúc lợi của người này với người kia – là
thiếu căn bản và không cần thiết, và nếu loại bỏ tiền đề này thì “định luật
không thể” của Arrow trở thành “có thể”, nghĩa là qua bỏ phiếu, có thể tổng hợp
những giá trị cá nhân thành một quyết định duy nhất của cộng dồng. Nói khác đi,
có cách bỏ phiếu để đưa đến những quyết định được sự đồng thuận của toàn xã
hội. Khám phá này của Sen đã mở đường cho những nhà kinh tế lý thuyết tìm kiếm
những cách để thẩm định phúc lợi của con người tương thích với quyết định cộng
đồng. Một trong những ứng dụng của nó là tìm cách đo lường sự nghèo khổ của con
người trong xã hội.


Chính nhờ Sen mà các
nhà kinh tế trở nên dè dặt hơn khi đánh đồng phúc lợi với GDP. Theo Sen, GDP
không phản ảnh “cơ hội” kinh tế của con người, và chính số lượng cơ hội đó là
đóng góp rất nhiều vào hạnh phúc của cá nhân, không kém gì số lượng của cải vật
chất hiện có.


Nhiều học giả (như
Eric Maskin, Nobel 2007) cho rằng tự do cá nhân và phúc lợi đôi khi xung khắc:
muốn thêm cái này thì phải bớt cái kia. Sen bác bỏ ý kiến này. Theo ông, tự do
là một cách để bảo vệ phúc lợi. Quyền được đọc bất cứ gì mà anh muốn (thay vì
bị người khác bảo anh phải đọc cái gì), chẳng hạn, thường nâng cao thu nhập.


Chỉ trích chủ nghĩa vị
lợi (utilitarianism), Sen lập luận rằng KHÔNG THỂ LẤY (TỐC ĐỘ) TĂNG TRƯỞNG KINH
TẾ ĐỂ THẨM ĐỊNH LỢI ÍCH bởi nó không cho thấy những người thật sự thiếu thốn
đang sung sướng hoặc khổ sở ra sao. Và cách đo dụng ích (utility) căn cứ trên
sụ ưa chuộng hiện tại của mỗi cá nhân cũng có thể đưa đến nhiều sai lầm vì
người ta hay thích ứng nguyện vọng của mình tùy vào hoàn cảnh hiện có (chẳng
hạn như một người nghèo có những ưa chuộng khác người giàu vì họ biết họ
nghèo…)


Tuy coi trọng vấn đề
dân chủ và tự do, Sen cũng nhìn nhận rằng phát triển kinh tế là một đòi hỏi cấp
bách (và ông buồn rầu nhìn nhận rằng Ấn Độ đã thua kém Trung Quốc về mặt này).
Cụ thể, vì coi trọng cả phát triển và dân chủ, Sen (và những nhà kinh tế tâm
đắc với ông) tìm cách làm sao để phát triển mà không hi sinh dân chủ (như đang
xảy ra ở nhiều nước). Sen cho rằng sự đánh đổi ấy (muốn thêm cái này thì phải
bớt cái kia) là không thể chấp nhận được, bởi lẽ, theo ông, cả hai đều có giá
trị tự tại.


*


Trong nhiều thập kỷ,
tiếp cận của Sen đã bị chỉ trích bởi phe tả lẫn phe hữu. Vào những năm 1950,
1960, khi mà kế hoạch hoá kiểu Liên Xô là thời thượng trong giới kinh tế cánh
tả thì Sen bị xem là người “phản đạo” . Nhưng sang những năm 1980, 1990 khi mà
chủ nghĩa thị trường tự do (của phe hữu) lên ngôi thì chính chủ khảo giải Nobel
đã tiên đoán: “Sen sẽ không bao giờ được Nobel”. Sen nhận Nobel năm 1998.


Chứng kiến sự sụp đổ
của chính sách kế hoạch hoá kiểu Xô Viết cũ, Sen không còn tin là phát triển
kinh tế cần đến ngoại viện, hoặc cần bảo hộ thương mại. Ông tin nhiều hơn vào
VAI TRÒ CỦA NỘI LỰC TRONG PHÁT TRIỂN. Ông cổ vũ mở cửa cho thương mại và đầu tư
nước ngoài, nhưng đồng thời nhà nước cũng phải trợ giúp thành phần có thu nhập
thấp, nhất là về giáo dục, y tế và dinh dưỡng.


Trong quyển sách mới
đây nhất của Sen (Ý niệm công lý, 2009), ông suy nghĩ thấu đáo về những khó
khăn trong định nghĩa của “công lý” (theo Rawls, chẳng hạn, thì “công lý là
công bằng”), và ông đưa ra định nghĩa của ông. Bàng bạc trong những lý luận
lôgic của Sen là một TẤM LÒNG LUÔN HƯỚNG VỀ NHỮNG NGƯỜI BẦN CÙNG, CÔ THẾ…
Cũng như lúc trước ông đã dùng chính lôgic của Arrow để bác bỏ “định lý Arrow”,
trong cuốn sách mới ra này Sen dùng chính tiếp cận triết học của Rawls để vạch
ra những hạn chế của quan niệm về công lý mà Rawls khẳng định.


Ở Sen, ta thấy một trí
thức (và Sen là một trí thức trong nghĩa tốt đẹp và chính xác nhất của danh
hiệu này) mà cuộc sống luôn hướng về hạnh phúc và khổ đau của đồng loại, ông
rất gần gũi với những âu lo căn bản nhất của con người (có gì căn bản hơn nhu
cầu cơm ăn, áo mặc?), và ông tiếp cận vấn đề với cường độ trí thức cực kỳ trung
thực và siêu việt. Sen là một “trí thức công” (public intellectual) đúng nghĩa,
với những suy nghĩ cặn kẽ về nhiều vấn đề, ở nhiều lãnh vực – từ kinh tế, xã
hội, triết học, đến những tranh chấp chủng tộc, hạt nhân.


Nhiều người cho rằng
Sen không phải là một nhà kinh tế “thường”, theo nghĩa là ông không tham gia
vào những tranh luận về chính sách kinh tế, thậm chí khó nói là ông thuộc
trường phái “tiền tệ” hoặc môn đồ của Keynes (tôi đoán là Keynes). Nhiều người
khác chỉ trích Sen là ông ôm đồm quá nhiều: từ nạn đói đến nạn phụ nữ chết sớm,
đến vấn đề đã đa văn hoá và sự lan tràn vũ khí hạt nhân. Những chỉ trích này
cũng có phần đúng. Nhưng kinh tế học cần những người như Amartya Sen. Dù, hiển
nhiên, ông không phải là nhà kinh tế duy nhất quan tâm đến số phận những người
nghèo, cô thế… nhưng ông hơn hẵn những người khác ở chiều sâu suy nghĩ.


Robert Solow, một
“trưởng lão” trong làng kinh tế đương đại (và cũng đã được Nobel) đã gọi Amartya
Sen là “lương tâm của kinh tế”. Đó không chỉ là vinh dự cho Sen nhưng có lẽ,
hơn nữa, là vinh dự cho mọi nhà kinh tế.


GS. Trần Hữu Dũng

Nguồn:
Viet-studies.info 

Biên tập & Hình
ảnh: [Admin T]

Nguồn WEGREEN

Nghiên cứu về khoa học huyền bí, tâm linh, ufo, chính trị, tôn giáo

Tin nổi bật trong ngày
Tin mới nhất

Register

Newsletter

Email this story

If you really want to ban this commenter, please write down the reason:

If you really want to disable all recommended stories, click on OK button. After that, you will be redirect to your options page.