“Ngài say mê hồ ly Đát Kỷ nên mới mất nước, ta chung thuỷ với vợ hiền, sao mà giống được?” – Ồ, thế mà hoá ra lại rất giống.
Cuộc họp khẩn cấp nhân vụ việc Hác Hải Đông đọc bản tuyên ngôn thành lập “Nhà nước Liên bang Trung Quốc mới” vào đúng 31 năm sự kiện Lục Tứ như giọt nước làm tràn ly. Những ngày tháng qua dường như đã vắt kiệt sức lực của Tập Cận Bình: thương chiến Mỹ – Trung chưa lắng xuống thì biểu tình đòi dân chủ ở Hồng Kông đã dậy lên, biểu tình chưa dịu đi thì đại dịch Vũ Hán đã bùng nổ, trong thì đòi bãi miễn chủ tịch, ngoài thì lập liên minh đối Trung… Nguy cơ tứ bề chưa biết gỡ từ đâu, nay lại nảy ra cái tuyên ngôn đòi xóa sổ ĐCSTQ. Ông Tập lặng lẽ bước về phòng riêng, đi dọc hành lang tối đen hun hút.
Quá mệt mỏi, ông gục đầu xuống bàn, ngủ thiếp đi.
Chợt một cơn gió lạnh buốt thổi toang cánh cửa. Tập Cận Bình rùng mình thức dậy, bỗng thấy một người đàn ông tướng mạo uy nghi, vận lễ phục hoàng đế, chỉ có đôi mắt như mờ đục, như xa xăm, điềm nhiên đi tới.
Tập Cận Bình ngạc nhiên chưa kịp phản ứng gì, người đàn ông đã nghiêm giọng quát:
– Hậu sinh ngu muội! Ta khó nhọc một đời, diễn vở kịch hôn quân mất nước, cốt để ngày nay ngươi trông đó làm gương, thế mà ngươi chấp mê bất ngộ, dẫm lên vết xe đổ, thật phí công ta!
Tập Cận Bình chăm chú nhìn vị khách lạ mặt từ đầu đến chân, cất tiếng hỏi:
– Ông là ai, chưa được phép đã vào phòng ta?
Vị khách lạ mặt không trả lời, thủng thẳng ngâm một bài thơ:
Trích Tinh ngọn lửa cháy bừng lên,
Ngọc nát vàng tan cháy rụi đền.
Cơ nghiệp Thành Thang thành tro bụi,
Sáu trăm năm lẻ nghĩ buồn tênh.
Tập Cận Bình vỡ lẽ, thì ra là Trụ vương. Đoạn chắp tay xá một cái, rồi căn vặn:
– Ta không biết ngài tới nên thất lễ, xin thứ lỗi cho. Xin hỏi, ngài say mê hồ ly Đát Kỷ nên mới mất nước, ta chung thuỷ với vợ hiền, sao mà giống được?
Trụ vương cười vang:
– Ngươi đúng là ngu muội hệt ta khi xưa, ở cạnh yêu tinh mà chẳng hề hay biết. Hãy rửa tai mà nghe ta nói đây:
Ngày xưa Đát Kỷ mê hoặc ta đắm chìm trong tửu sắc, đào ao chứa rượu, găm thịt làm rừng, lập Lộc đài lãng phí gần hết của kho, sai Hầu Hổ đốc công nhũng lạm tiền dân chúng. Ngày nay Trung Cộng tham ô hủ bại, quan chức xây biệt thự, nuôi bồ nhí bằng xương máu nhân dân, cũng cùng một giuộc.
Lúc xưa Đát Kỷ xúi ta làm Bào Lạc đốt trung thần can gián, khói độc lên ngút trời xanh, làm cho thiên hạ trở lòng, tướng binh bỏ mạng. Thời nay Trung Cộng tắm máu sinh viên trên quảng trường Thiên An Môn, bắt bớ nhân sĩ dân chủ, đàn áp người bất đồng chính kiến, khiến thiên hạ oán than.
Khi xưa Đát Kỷ bày cho ta lập Sái Bồn hại cung nga, hồn oan kêu vang địa ngục, nhưng ta xảo ngôn là nước có giềng mối, đạo có quân thần, hình pháp phải nghiêm thì cơ đồ mới vững. Ta xem cái cách Trung Cộng thanh trừng nội bộ, “tiêu diệt phản cách mạng”, hô hào “ổn định”, “hài hoà” xã hội… nào có khác gì.
Thuở xưa Đát Kỷ xui ta chặt chân kẻ bộ hành xem tủy, mổ bụng đàn bà chửa xem thai, moi tim Tỷ Can làm thuốc, coi mạng dân như cỏ rác, trời sầu đất oán quỷ giận thần kinh. Hôm nay Trung Cộng mổ cướp nội tạng sống người tu luyện Pháp Luân Công, biến bác sĩ thành kẻ giết người, ác nghiệp chất cao như núi. Tuy tội ác do Giang Trạch Dân khởi xướng nhưng ngươi hiện là kẻ đứng đầu, không chấm dứt chính là đồng loã dung túng.
Than ôi! Tội ác rõ rành! Trung Cộng chính là yêu tinh bên cạnh nhà ngươi đó!
Lời Trụ vương như tiếng sét rạch trời đêm, Tập Cận Bình bàng hoàng tỉnh ngộ. Ông chau mày suy nghĩ… Tiến thoái lưỡng nan, cưỡi hổ khó xuống, nếu cái Đảng này sập, e rằng tính mạng ông cũng khó bảo toàn. Nghĩ vậy, Tập Cận Bình đáp:
– Đa tạ tiền bối nhọc lòng dạy bảo. Có điều, xưa kia Đát Kỷ dẫu sao cũng chỉ là xác thân một người con gái, nói giết là giết ngay, còn hôm nay Đảng cộng sản là một tập đoàn chính trị, sức mình tôi không dễ mà giải thể trong một ngày. Huống hồ, tôi nghĩ dù sao khi xưa ngài mất nước là vì Chu võ vương nước giàu binh mạnh, được Khương Tử Nha và vô số thần tiên trợ giúp, còn bây giờ cái “nhà nước liên bang Trung Quốc” kia không có sức mạnh quân sự gì, khó lòng uy hiếp đại lục…
Tập Cận Bình chưa hết lời, Trụ vương đã nổi giận, mắng:
– Ngươi thật là chấp mê bất ngộ! Tự cổ chí kim, được lòng dân là được nước, mất lòng dân là mất nước. Khi xưa Khương Tử Nha viết tờ hịch lên giấy, bắn vào thành Triều Ca là quân dân đã tự nguyện dâng thành, 800 chư hầu tiến thẳng Ngọ môn vấn tội ta. Ngươi thử nghĩ xem, sau bấy nhiêu năm bị Đảng dày xéo, bây giờ lòng dân Hoa Hạ ngả về đâu? Lẽ được mất ngươi phải rõ ràng rồi chứ.
Tập Cận Bình trầm ngâm. Lẽ nào… càn khôn lại chuyển vần nhanh đến thế? Giang sơn này là giang sơn của Đảng, có thể dâng cho người khác dễ dàng vậy sao?
Trụ vương dường như đọc được suy nghĩ của ông Tập, nên mỉm cười nói:
– Ngươi cho rằng giang sơn này là của ai? Khi xưa, ta làm thiên tử, phụng mệnh Trời cai trị muôn dân, cuối cùng phải chống mắt thấy giang sơn về tay Chu Võ. Người đời sau có làm thơ về ta và Đát Kỷ, thơ rằng:
Nghĩ tới vui xưa tại Lộc đài,
Dứt tình vì giặc đánh bên ngai
Uyên ương kết cánh từ năm ấy,
Loan phụng chia lìa nội bữa nay.
Binh tựa mây đen tan trống rỗng,
Tướng như sao sáng, lặn lai rai
Biệt ly chén rượu say rồi tỉnh
Ðoái lại giang sơn vốn của ai.
Giang sơn này vốn chẳng phải của Đảng, người Trung Hoa vốn không phải hậu duệ Rồng Đỏ, mà là con cháu Viêm Hoàng. Cổ nhân nói: “Hoàng thiên vô thân, duy đức thị phụ”, nghĩa là “Trời xanh không kể thân thích, chỉ trợ giúp người có Đức”. Mệnh trời sẽ