ĐĂNG TIN
logo
Online:
Visits:
Stories:
Profile image
Tác giả: BINVIET News
Trang tin cá nhân | Bài đã đăng
Lượt xem

Hiện tại:
1h trước:
24h trước:
Tổng số:
Nội hàm thiên nhân hợp nhất ẩn sau cây đàn Cổ cầm
Thursday, June 18, 2020 1:03
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.


Cổ cầm đứng đầu bảng trong tứ nghệ Cầm Kỳ Thư Họa của các bậc văn nhân tài tử xưa. Đây là nhạc khí tất yếu cần có để tu thân dưỡng tính của mỗi văn nhân.

Khổng Tử từng dạy: “Người quân tử lập chí hướng ở đạo, nắm chắc đức, dựa vào nhân nghĩa, vui chơi ở lục nghệ (lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số”. Trong sách Lễ ký có nói: “Kẻ sĩ không nên chia lìa đàn cầm đàn sắt một cách vô cớ”. Khổng Tử cũng nói: “Hưng vượng là nhờ thi thư, đứng vững được là nhờ lễ giáo, thành là nhờ nhạc”.

Trong Tân Luận, Cầm Đạo Biên của Hoàn Đàm có thuyết: Xưa Thần Nông kế tiếp tộc Bào Hy (Phục Hy) làm vương thiên hạ, trên quan sát phép tắc của trời, dưới lấy theo phép tắc của đất, gần lấy theo quy luật bản thân, xa lấy theo quy luật của vật, thế là bắt đầu gọt đẽo cây ngô đồng làm đàn cầm, lấy dây thừng dây tơ làm dây đàn, để thông với đức của Thần linh, hợp với sự hài hòa tốt lành của đất.

Các văn nhân xưa gảy đàn, mục đích không chỉ đơn thuần là trình bày nhạc khúc, mà còn ẩn chứa sự hài hòa giữa người và tự nhiên, quan niệm về Thiên nhân hợp nhất của vũ trụ, sinh mệnh, giá trị đạo đức. Một người đang mang tâm sự mà gảy đàn, từ trong tiếng phát ra và tư thế khi gảy đàn của họ cũng có thể cảm nhận được. Lắng nghe một người chơi đàn cũng giống như đang đọc nội tâm của họ. Đàn giống như một chiếc gương, phản ánh thế giới nội tâm của con người. Mượn tiếng đàn để truyền tải, chính là từ tư thế và sự say mê với cây đàn của một người, có thể hiểu được khí chất và sở thích của họ.

Nhiều thư tịch cổ đề cập tới hai chữ “Cầm đức” chính là khái niệm dùng âm nhạc để giáo hóa, thông qua việc chơi đàn mà tu tâm dưỡng tính… Nguyên nhân vì thông qua việc chơi đàn, có thể hiểu được sự thăng trầm lên xuống trong cảm xúc của mình, từ đó hiểu được ưu khuyết điểm của bản thân. Thông qua việc thay đổi tư thế khi chơi đàn cho phù hợp và đúng theo yêu cầu cần có, từ đó ảnh hưởng tới việc điều chỉnh tâm lý bên trong, lâu dần có tác dụng thay đổi một cách tự nhiên cả tâm lẫn thân. Tiếng đàn thuần phác, không màng danh lợi có thể làm tâm thái người ta trở nên bình hòa, yên tĩnh, toàn thân thoải mái.

Vì vậy mới có câu nói, một người dưỡng thân không bằng dưỡng tâm, nghe đàn không bằng đích thân tự học đàn, tự bản thân thể nghiệm, cảm nhận sức ảnh hưởng của tiếng đàn. Niềm đam mê, yêu thích và sự thỏa mãn hài lòng chỉ có thể ngầm hiểu mà không thể truyền đạt thành lời.

Cấu tạo Cổ cầm: Vừa có núi có biển, lại có Phượng có Long

Cổ cầm dài khoảng 120-125cm, rộng khoảng 20cm, dày khoảng 6cm. Hình dáng mô phỏng theo hình dáng phượng hoàng, toàn thân ứng với thân phượng hoàng (cũng có thể nói tương ứng với thân người) bao gồm: đầu đàn, cổ đàn, vai đàn, lưng đàn, đuôi đàn, chân đàn.

Phần phía trên đầu đàn được gọi là phần trán, đoạn dưới phần trán có nạm gỗ cứng để buộc dây đàn, gọi là Nhạc Sơn (hay Lâm Nhạc ) là phần cao nhất của đàn. Phần đáy đàn có hai rãnh âm, nằm ở phần giữa đáy đàn kích thước lớn gọi là Rãnh Long, nằm ở phần đuôi của đáy đàn kích thước nhỏ hơn gọi là Rãnh Phượng, đây gọi là trên núi dưới biển vừa có Rồng lại vừa có Phượng, tượng trưng cho đất trời vạn vật. 7 dây của đàn được cột từ phần Thừa Lô, mắc qua phần Nhạc Sơn, Long Lợi, sau đó chuyển hướng xuống đôi Túc Nhạn nằm ở phần đáy đàn. Về vị trí của phím trên Cổ cầm, trong sách Cầm tiên của Thôi Tuân Độ đời Tống có viết: “13 phím tượng trưng cho tháng, phím ở giữa tượng trưng tháng nhuận”.

Phần hộp đàn của Cổ cầm là cả một khúc gỗ được khoét rỗng tạo thành, thành hộp khá dày và gồ ghề, do đó âm thanh của đàn thanh cao, ý vị. Phần đầu của bụng đàn có 2 rãnh âm là Thiệt Huyệt và Thanh Trì, phần đuôi của bụng đàn có một rãnh âm được gọi là Ý Chiểu. Đối ứng với Long Trì và Phượng Chiểu đều có phần nạp âm riêng. Phần đầu của nạp âm Long Trì có Thiên Trụ, phần đuôi có Địa Trụ, làm cho khi khảy đàn âm phát ra bị giữ lại không thoát đi được; Khi khảy đàn sẽ linh động hơn, lại có những ưu điểm sau: dây đàn khá dài, độ rung của dây đàn lớn, dư âm dài… do đó Cổ cầm mang những nét đặc sắc riêng của thủ âm. Cổ cầm còn có 3 loại âm sắc là: “âm phiếm”, “âm án” và “âm tản”, tượng trưng cho Thiên, Địa, Nhân hòa hợp.

Cầm Đức – Tác dụng giáo hóa của Cổ cầm

Nghệ thuật đàn cổ theo đuổi cái đẹp, không chỉ ở hình thức tráng lệ bên ngoài, mà còn ở chỗ hiểu rõ được những hàm ý bên trong. Giá trị của nó vượt hơn bản thân âm nhạc, ẩn chứa sự hài hòa giữa con người và tự nhiên, vũ trụ quan thiên nhân hợp nhất, quan niệm về sinh mệnh và quan niệm về đạo đức. Nó là phương tiện để tu thân dưỡng tính, thức tỉnh trước lẽ phải, giáo hóa 4 phương, coi trọng “Cầm đức” cùng với “Cầm Đạo”.

Trong sách Cầm thao của Thái Ung có viết: “Xưa kia Phục Hy sáng tạo ra cây đàn cầm, dùng để chế ngự tà ma, đề phòng tâm phóng đãng, để tu dưỡng lý trí, để trở về với bản tính tiên thiên của mình”. Còn trong sách Nhạc ký có chép: “Người có Đức thì tính tình đoan chính, còn đối với người chơi nhạc thì có Đức mới đàn hay được”.

Âm điệu của Cổ cầm khiến người nghe có cảm giác thanh cao thoát tục, chính là vì cổ nhân có sự đầu tư nghiên cứu kỹ lưỡng đối với thời gian, tâm ý, dáng vẻ, bầu không khí khi chơi. Vậy nên có thuyết giảng về “Lục kỵ, thất bất đàn” (6 điều kiêng kỵ và 7 điều cấm khi đàn). Ở đây “Lục kỵ” là chỉ về 6 hiện tượng thời tiết, gồm: giá rét, nóng nực, gió to, mưa to, sấm sét và tuyết lớn. “Thất bất đàn” gồm: Nghe tin có người chết, khi tấu nhạc ồn ào, khi nhiều việc, người không sạch sẽ, áo mũ

Tin nổi bật trong ngày
Tin mới nhất

Register

Newsletter

Email this story

If you really want to ban this commenter, please write down the reason:

If you really want to disable all recommended stories, click on OK button. After that, you will be redirect to your options page.