ĐĂNG TIN
logo
Online:
Visits:
Stories:
Profile image
Tác giả: ZeroEnergyVN
Trang tin cá nhân | Bài đã đăng
Lượt xem

Hiện tại:
1h trước:
24h trước:
Tổng số:
Vì sao Thủ tướng cấm quảng cáo Sữa?
Saturday, November 15, 2014 12:52
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.


Ít ai biết, quyết định mới đây của Thủ tướng cấm các hãng sữa quảng cáo sữa bột cho các bà bầu và trẻ dưới 24 tháng tuổi, cấm tiếp cận các bác sĩ, y tá để tiếp thị sữa, cấm các hãng sữa tài trợ các nghiên cứu khoa học … là kết quả của một quá trình vận động kiên trì của UNICEF với Bộ Y tế, trong bối cảnh các hãng sữa tung mọi chiêu tẩy não người tiêu dùng để tăng lợi nhuận và làm cho tỉ lệ trẻ em được bú mẹ hòan toàn đến 6 tháng tuổi ở Việt Nam rớt xuống ngưỡng báo động, chỉ còn 19%, là 1 trong 3 nước đứng bét khu vực. 
B4INREMOTE-aHR0cDovLzEuYnAuYmxvZ3Nwb3QuY29tLy13ejBCYjM2cDBray9WR2V0dkhScnZjSS9BQUFBQUFBQVI4QS9EVGc2T2dmMnRYcy9zMTYwMC90aCVFMSVCQiVBNyUyQnQlQzYlQjAlRTElQkIlOUJuZyUyQmMlRTElQkElQTVtJTJCcXUlRTElQkElQTNuZyUyQmMlQzMlQTFvJTJCcyVFMSVCQiVBRmEuanBn
Ít người biết, trong khi sữa mẹ có đủ 12 hệ thống kháng thể tự nhiên cho con người thì sữa công thức không hề có. Điều này làm suy giảm nghiêm trọng sức đề kháng của trẻ, làm trẻ dễ bị viêm nhiễm, dị ứng và bệnh tật sau này. Việc dùng sữa bò thường xuyên cũng đã được Cơ quan Lương thực Thụy Điển mới đây cảnh báo chất D-Galactose trong sữa bò gây lão hóa nhanh (xem bài của Coach tuần trước, link tiếng Anh đây), và theo Coach có thể có liên quan đến nạn thừa cân béo phì và bé gái dậy thì sớm (và sau đó sẽ là mãn dục sớm) hiện nay. http://www.latimes.com/science/la-sci-sn-milk-health-risks-20141029story.html#page=1
Đứng trước lệnh cấm này, nhiều bà mẹ hoang mang “con em không đủ sữa mẹ thì ăn gì bây giờ?”. Lướt qua các trang thông tin chuyên về nhi khoa ít tính thương mại và tham vấn các bác sĩ nhi nước ngòai không bị các hãng sữa tiếp cận, đều nói, ngọai trừ các bà mẹ bị phẫu thuật ngực ảnh hưởng đến tiết sữa hay đang điều trị ung thư, còn lại Mẹ Thiên Nhiên đã thiết kế sẵn cho các bà mẹ cơ chế điều tiết để có đủ sữa cho con nếu biết cho con bú đúng cách. Càng cho bú nhiều càng gửi tín hiệu cho mẹ sản xuất thêm sữa. Nhiều khi cảm giác “con em không đủ sữa” cũng có thể do cảm tính nếu sốt ruột thấy con tăng cân không nhanh bằng con hàng xóm, mà không để ý đến các dấu hiệu bé vẫn khỏe mạnh, số lần và màu sắc khi đi tiêu tiểu của bé bình thường, bé vẫn tăng cân dù ít; hay do mẹ phải cho con bú nhiều lần quá mệt mỏi… (tham khảo trang này:http://www.cyh.com/HealthTopics/HealthTopicDetails.aspx?p=114&np=302&id=2139 )
Xét cho cùng, lựa chọn cho con bú mẹ hay bú bình là quyền của các bà mẹ và tùy thuộc vào hòan cảnh của mỗi người. Các mẹ nào buộc phải cho con bú bình thì vẫn mua được bình thường vì Chính phủ chỉ cấm quảng cáo chứ đâu có cấm bán. Tuy nhiên, do quyết định này quá quan trọng với sức khỏe của bé sau này, các bà mẹ hãy tìm hiểu thật kỹ thông tin một cách khách quan. Coach post lại 2 bài về Sữa đã đăng tháng trước để mẹ nào chưa kịp đọc có thêm 1 nguồn thông tin khách quan nữa.
—————————
SỮA TỐT HAY KHÔNG?
Phải nói ngay đây là 1 vấn đề gây tranh cãi trên thế giới và bạn phải tự quyết định. Mặt được cho là tốt của sữa thì các nhà sản xuất và quảng cáo đã nói đầy trên TV làm bà con ta ngày càng thâm thủng ngân sách (chưa bàn chính xác bao nhiêu % nhưng hầu hết chỉ đúng với sữa sống raw milk chưa thanh/tiệt trùng), còn mặt trái thì đáng tiếc chẳng có ai tài trợ cho các nhà khoa học quảng cáo rộng rãi. Để rộng đường cân nhắc, bà con ta tham khảo tài liệu dưới đây của Ủy ban Trách nhiệm Y khoa Hoa Kỳ về mặt trái của sữa, để chí ít đừng tin vào quảng cáo mà cho con uống sữa thay nước hay thay cho các thức ăn thực sự dinh dưỡng khác mà rước bệnh vào thân.
———- 
ỦY BAN TRÁCH NHIỆM Y KHOA HOA KỲ
PHYSICIANS COMMITTEE FOR RESPONSIBLE MEDICINE
Nhiều người Mỹ, kể cả một số người ăn chay, vẫn tiêu thụ một lượng lớn các sản phẩm từ Sữa. Sau đây là 8 lý do lớn nên lọai Sữa ra khỏi chế độ ăn của bạn. 
1. LOÃNG XƯƠNG
Sữa được chào bán để ngăn ngừa loãng xương, nhưng các nghiên cứu lâm sàng lại cho thấy khác. Công trình nghiên cứu Sức khỏe trên các Y tá của ĐH Havard1 (the Harvard Nurses’ Health Study) theo dõi hơn 75.000 phụ nữ trong suốt 12 năm cho thấy việc tăng tiêu thụ sữa không có hiệu quả bảo vệ đối với nguy cơ gẫy xương. Trên thực tế, việc tăng nạp canxi từ các sản phẩm sữa liên quan đến nguy cơ gẫy xương cao hơn. Một nghiên cứu của Australia2 cũng cho kết quả như vậy. Thêm vào đó, các nghiên cứu khác3,4 cũng không tìm thấy tác dụng bảo vệ xương từ canxi trong sữa. Bạn có thể tự giảm nguy cơ loãng xương cho mình bằng cách giảm ăn muối và đạm động vật5-7, tăng ăn rau và trái cây8, tập thể dục9, và đảm bảo nạp đủ canxi từ các thức ăn thực vật như các lọai rau lá màu xanh và đậu hạt, cũng như các sản phẩm tăng cường canxi như ngũ cốc ăn sáng và nước trái cây. 
2. BỆNH TIM MẠCH
Các sản phẩm từ sữa – bao gồm phomai, kem, sữa, bơ và sữa chua – cung cấp một lượng đáng kể cholesterol và chất béo trong bữa ăn của bạn10. Một chế độ ăn nhiều chất béo và chất béo bão hòa có thể làm tăng nguy cơ gây ra một số bệnh mãn tính trong đó có bệnh tim mạch. Một chế độ ăn chay ít chất béo loại bỏ các thực phẩm từ sữa, kết hợp với tập thể dục, bỏ thuốc lá, và kiểm sóat sự căng thẳng stress, không những có thể ngăn ngừa bệnh tim mà thậm chí còn có thể đảo ngược nó11. Các sản phẩm sữa không béo cũng có trên thị trường nhưng chúng lại gây ra những nguy cơ sức khỏe khác được lưu ý dưới đây.
3. UNG THƯ
Một số lọai ung thư, như ung thư buồng trứng, có liên quan đến việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa. Đường lactose trong sữa khi đi vào cơ thể được phân tách thành một lọai đường khác là galactose. Đến lượt mình, đường galactose lại được các men enzyme phân tách tiếp. Theo một nghiên cứu của Tiến sĩ Daniel Cramer và các đồng nghiệp tại ĐH Y Havard12, khi ta tiêu thụ nhiều các sản phẩm từ sữa vượt quá khả năng phân tách galactose của các enzyme, nó có thể tích lũy lại trong máu và ảnh hưởng đến buồng trứng của phụ nữ. Một số phụ nữ có lượng enzyme này đặc biệt thấp, và khi họ tiêu thụ thường xuyên các sản phẩm từ sữa, nguy cơ bị ung thư buồng trứng của họ có thể cao gấp 3 lần so với các phụ nữ khác.
Ung thư vú và tuyến tiền liệt cũng có liên quan đến việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa, được cho là ít nhất có liên quan một phần đến việc làm tăng một hợp chất có tên là IGF-I13-15. Chất IGF-I được tìm thấy trong sữa bò và đã được phát hiện với liều lượng tăng lên trong máu của những người thường xuyên tiêu thụ các sản phẩm từ sữa. Trong sữa bò còn có các dưỡng chất làm tăng lượng IGF-I. Một nghiên cứu gần đây cho thấy những nam giới có lượng IGF-I cao nhất có nguy cơ mắc ung thư tiền liệt tuyến cao hơn gấp 4 lần so với những người có lượng IGF-I thấp nhất14.
4. TIỂU ĐƯỜNG
Các chứng bệnh tiểu đường phụ thuộc insulin (tiểu đường típ 1 hay tiểu đường ở người trẻ) có liên quan đến việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa. Các nghiên cứu bệnh dịch học ở nhiều nước cho thấy một mối tương quan mạnh mẽ giữa việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa với các trường hợp mắc tiểu đường phụ thuộc insulin17,18. Năm 1992 (18) các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng một lọai protein trong sữa kích họat một phản ứng tự miễn trong cơ thể được cho là tác nhân phá hủy các tế bào sản sinh insulin của tuyến tụy. 
5. KHÔNG DUNG NẠP ĐƯỜNG LACTOSE
Chứng không dung nạp Lactose phổ biến ở một số chủng tộc và ảnh hưởng đến khoảng 95% người Mỹ gốc châu Á, 74% người Mỹ bản xứ, 70% người Mỹ gốc Phi, 53% người Mỹ gốc Mêhicô và 15% người da trắng Caucasian19. Các triệu chứng bao gồm rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy và đầy bụng là do những người này không có các loại enzyme tiêu hóa đường lactose trong sữa. Hơn nữa, bên cạnh các triệu chứng không mong muốn này, những người uống sữa cũng tự đặt mình trước nguy cơ mắc các bệnh tật mãn tính khác. 
6. NGỘ ĐỘC VITAMIN D
Việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa có thể không cung cấp một nguồn vitamin D ổn định và đáng tin cậy trong chế độ ăn. Nghiên cứu các mẫu sữa được chọn mẫu cho thấy có sự khác biệt đáng kể về lượng vitamin D, một số mẫu sữa chứa đến 500 lần lượng ghi trên nhãn trong khi một số mẫu khác lại có rất ít hoặc không hề có vitamin D20,21. Quá nhiều vitamin D có thể gây ngộ độc và có thể dẫn đến có quá nhiều canxi trong máu và nước tiểu, làm tăng hấp thụ nhôm trong cơ thể và gây lắng đọng canxi trong các mô mềm. 
7. NHIỄM HÓA CHẤT
Các hócmôn tổng hợp như hócmôn tăng trưởng trên bò (rBGH) được sử dụng phổ biến trên bò sữa để tăng sản lượng sữa13. Do phải tiết ra một lượng sữa lớn trái với tự nhiên, kết quả cuối cùng là bò bị bệnh viêm tuyến vú. Việc chữa bệnh này cần dùng thuốc kháng sinh, và dư lượng kháng sinh và hócmôn này đã được tìm thấy trong mẫu sữa và các sản phẩm từ sữa bò. Các thuốc trừ sâu và dược phẩm khác cũng là những chất hay nhiễm trong các sản phẩm từ sữa. 
8. CÁC LO NGẠI VỀ SỨC KHỎE ĐỐI VỚI TRẺ SƠ SINH VÀ TRẺ EM
Các chất đạm của sữa, chất đường của sữa, chất béo và chất béo bão hòa trong các sản phẩm từ sữa có thể gây ra những nguy cơ sức khỏe cho trẻ em và gây ra các bệnh mãn tính như béo phì, tiểu đường, và hình thành các mảng bám xơ vữa động mạch có thể dẫn đến bệnh tim. Viện Nhi khoa Hoa Kỳ khuyến nghị không cho trẻ dưới 1 tuổi uống sữa bò nguyên chất vì trẻ dùng nhiều sữa bò dễ bị thiếu sắt10. Các sản phẩm từ sữa bò có lượng sắt rất thấp. Nếu sữa bò trở thành một phần chính trong chế độ ăn của ai, người đó rất dễ bị thiếu sắt. Đau bụng cũng là một lo ngại khi dùng sữa bò. Cứ 5 em bé thì có 1 bé bị chứng đau bụng. Các bác sĩ nhi khoa đã biết từ lâu rằng nguyên nhân phổ biến là do sữa bò. Bây giờ chúng ta cũng đã biết, các bà mẹ đang cho con bú cũng dễ gây đau bụng cho con nếu các bà mẹ này dùng sữa bò. Các kháng thể của bò có thể truyền qua máu của mẹ đi vào sữa mẹ và truyền sang con22. 
Thêm vào đó, các bệnh dị ứng thức ăn cũng thường là do sử dụng sữa, đặc biệt là ở trẻ em. Một nghiên cứu gần đây23 cũng cho thấy sự liên quan giữa tiêu thụ sữa bò với bệnh táo bón mãn tính ở trẻ. Các nhà nghiên cứu khuyến cáo rằng tiêu thụ sữa làm đau vùng quanh hậu môn và đau dữ dội khi đi cầu dẫn đến bệnh táo bón.
Sữa và các sản phẩm từ sữa là không cần thiết trong chế độ ăn uống, và trên thực tế, có thể có hại cho sức khỏe trẻ em. Hãy theo một chế độ ăn lành mạnh bao gồm hạt ngũ cốc, trái cây, rau, đậu hạt và các thực phẩm ngũ cốc ăn sáng và nước trái cây được tăng cường dưỡng chất. Những thức ăn giàu dinh dưỡng này có thể dễ dàng giúp bạn đáp ứng đủ lượng canxi, kali, riboflavin và vitamin D cần thiết mà lại không có nguy cơ hại sức khỏe. 
Người dịch: Trần Lan Hương, AADP Certified Health Coach
—–
Lưu ý của Coach TLH:
Nếu bạn vẫn còn phân vân với Sữa và quyêt định dùng sữa, hãy áp dụng thứ tự ưu tiên như sau:
1. Sữa mẹ (cái này ghi đây cho các mẹ đang nuôi con nhỏ và không phải để lựa chọn mà là bắt buộc nếu mẹ có sữa (hoặc nếu không đủ sữa thì ưu tiên số 1 là đi xin sữa các mẹ khác). Sữa mẹ là hoàn hảo cho bé với chất lượng vượt xa các loại sữa động vật khác, không thể so sánh.
2. Sữa bò, dê tươi sống chưa qua thanh trùng tiệt trùng (loại này cực hiếm, trừ khi nhà tự nuôi dê bò)
3. Sữa chua không đường
4. Sữa tươi nguyên chất thanh trùng (lại còn có loại sữa tươi hoàn nguyên từ sữa bột nữa mới chết, cẩn thận không lẫn)
5. Sữa tươi nguyên chất tiệt trùng
6. Sữa bột (Coach hay liên tưởng đến mì gói cứu đói đồng bào bão lụt nhưng cao cấp hơn)
——
Danh mục tài liệu tham khảo trong tài liệu của ỦY BAN TRÁCH NHIỆM Y KHOA HOA KỲ (PHYSICIANS COMMITTEE FOR RESPONSIBLE MEDICINE) 
1. Feskanich D, Willet WC, Stampfer MJ, Colditz GA. Milk, dietarycalcium, and bone fractures in women: a 12-year prospectivestudy. Am J Public Health 1997;87:992-7.
2. Cumming RG, Klineberg RJ. Case-control study of risk factors forhip fractures in the elderly. Am J Epidemiol 1994;139:493-505.
3. Huang Z, Himes JH, McGovern PG. Nutrition and subsequent hip fracture risk among a national cohort of white women. Am J
Epidemiol 1996;144:124-34.
4. Cummings SR, Nevitt MC, Browner WS, et al. Risk factors for hip fracture in white women. N Engl J Med 1995;332:767-73.
5. Finn SC. The skeleton crew: is calcium enough? J Women’s Health 1998;7(1):31-6.
6. Nordin CBE. Calcium and osteoporosis. Nutrition 1997;3(7/8):664-86.
7. Reid DM, New SA. Nutritional influences on bone mass. Proceed Nutr Soc 1997;56:977-87.
8. Tucker KL, Hannan MR, Chen H, Cupples LA, Wilson PWF, Kiel DP Potassium, magnesium, and fruit and vegetable intakes are associated wit greater bone mineral density in elderly men and women. Am J Clin Nutr 1999;69:727-36.
9. Prince R, Devine A, Dick I, et al. The effects of calcium supplementation (milk powder or tablets) and exercise on bone mineral density in
postmenopausal women. J Bone Miner Res 1995;10:1068-75.
10. Pennington JAT. Bowes and Churches Food Values of Portions Commonly Used, 17th ed. New York: Lippincott, 1998.
11. Ornish D, Brown SE, Scherwitz LW, Billings JH, Armstrong WT, Ports TA. Can lifestyle changes reverse coronary heart disease? Lancet 1990;336:129-33.
12. Cramer DW, Harlow BL, Willet WC. Galactose consumption and metabolism in relation to the risk of ovarian cancer. Lancet 1989;2:66-71.
13. Outwater JL, Nicholson A, Barnard N. Dairy products and breast cancer: the IGF-1, estrogen, and bGH hypothesis.
Medical Hypothesis 1997;48:453-61.
14. Chan JM, Stampfer MJ, Giovannucci E, et al. Plasma insulin-like growth factor-1 and prostate cancer risk: a
prospective study. Science 1998;279:563-5.
15. World Cancer Research Fund. Food, Nutrition, and the Prevention of Cancer: A Global Perspective. American Institute of Cancer Research. Washington, D.C.: 1997.
16. Cadogan J, Eastell R, Jones N, Barker ME. Milk intake and bone mineral acquisition in adolescent girls: randomised, controlled intervention trial. BMJ 1997;315:1255-60
17. Scott FW. Cow milk and insulin-dependent diabetes mellitus: is there a relationship? Am J Clin Nutr 1990;51:489-91.
18. Karjalainen J, Martin JM, Knip M, et al. A bovine albumin peptide as a possible trigger of insulin-dependent diabetes mellitus. N Engl J Med 1992;327:302-7.
19. Bertron P, Barnard ND, Mills M. Racial bias in federal nutrition policy, part I: the public health implications of variations in lactase persistence. J Natl Med Assoc 1999;91:151-7.
20. Jacobus CH, Holick MF, Shao Q, et al. Hypervitaminosis D associated with drinking milk. N Engl J Med 1992;326(18):1173-7.
21. Holick MF. Vitamin D and bone health. J Nutr 1996;126(4suppl):1159S-64S.
22. Clyne PS, Kulczycki A. Human breast milk contains bovine IgG. Relationship to infant colic? Pediatrics 1991;87(4):439-44.
23. Iacono G, Cavataio F, Montalto G, et al. Intolerance of cow’s milk and chronic constipation in children. N Engl J Med 1998;339(16):1100-4.
Bài viết được đăng bởi http://www.zeronews.us

Tin nổi bật trong ngày
Tin mới nhất

Register

Newsletter

Email this story

If you really want to ban this commenter, please write down the reason:

If you really want to disable all recommended stories, click on OK button. After that, you will be redirect to your options page.