Tuy thất bại thê thảm ở Trung Đông nhưng khi tới Việt Nam, tên lửa SAM-2 đã thực sự trở thành “rồng lửa Thăng Long” vít cổ pháo đài B-52.
Nhắc đến chiến thắng Điện Biên Phủ trên không năm 1972, không thể không nhắc đến các tổ hợp tên lửa phòng không S-75 (Việt Nam gọi là SAM-2). Trong 12 ngày đêm Hà Nội, Hải Phòng hiên ngang chống lại cuộc tập kích đường không Linebacker II của Mỹ, các tiểu đoàn tên lửa SAM-2 đã bắn hạ 29 trong tổng số 34 máy bay ném bom chiến lược B-52, xóa tan hoàn toàn huyền thoại “pháo đài bay”.
Chiến công này càng thêm vang dội, khi chúng ta biết rằng: Người Mỹ đã nắm rõ tên lửa SAM-2 như lòng bàn tay. Trước trận đại thắng trên bầu trời miền Bắc Việt Nam cuối tháng 12 năm 1972, tên lửa S-75 đã chịu nhiều thất bại đau đớn, tưởng như không thể gượng dậy nổi. Nhưng với tài trí Việt Nam, SAM-2 đã thực sự trở thành “rồng lửa Thăng Long” vít cổ pháo đài bay B-52 .
Liên tiếp thất bại
Giữa thập niên 1960, Liên Xô viện trợ các tổ hợp tên lửa S-75 Dvina chưa qua sử dụng cho Việt Nam và một số quốc gia khác.
Tổ hợp tên lửa S-75 Dvina.
Tổ hợp tên lửa S-75 Dvina sử dụng đài radar điều khiển hỏa lực SNR-75 Fan Song và đài radar cảnh giới P-12 Spoon Rest , với các đạn tên lửa V-750 và V-750V, có thể diệt mục tiêu ở cự li từ 7-30km, độ cao tối thiểu 450m, tối đa 25.000m. Với đầu đạn nặng 190kg, bán kính sát thương lên đến 65m, tên lửa S-75 có sức công phá rất lớn, là con át chủ bài của phòng không Liên Xô trong một giai đoạn khá dài.
Tuy nhiên, trước khi đến Việt Nam, thành tích chủ yếu của S-75 chỉ là bắn hạ các máy bay do thám U-2 (ở Liên Xô năm 1960 và ở Cu Ba năm 1962), hay RB-57 (ở Trung Quốc năm 1961). Hai chiến trường lớn đầu tiên của tên lửaS-75 Dvina là tại Việt Nam và Trung Đông.
Ngày 27-3-1965, Việt Nam nhận được từ Liên Xô bộ trang bị khí tài của hai trung đoàn tên lửa phòng không S-75 Dvina, cùng với 4,5 cơ số đạn tên lửa (54 quả đạn). Chưa đầy một tháng sau, ngày 24-7-1965, hai tiểu đoàn 63, 64 của Trung đoàn 236 (Đoàn Tên lửa Sông Đà) đã lập công xuất sắc, phối hợp cùng với pháo cao xạ và súng máy phòng không tiêu diệt 10 máy bay Mỹ.
Hình ảnh trận địa tên lửa S-75 Dvina của bộ đội Việt Nam do máy bay trinh sát Mỹ chụp.
Choáng váng trước thất bại nặng nề, người Mỹ vội vã đẩy mạnh việc nghiên cứu, đối phó với tên lửa S-75 Dvina. Và điều không ai ngờ tới, là trong khi S-75 đại thắng ở Việt Nam, thì chúng lại thất bại thê thảm ở Trung Đông.
Lúc bấy giờ, rất nhiều tổ hợp S-75 Dvina đã được Liên Xô viện trợ cho Ai Cập và Syria để chống lại Isarel. Trong tình thế bị bao vây ngặt nghèo, phải chống lại cùng lúc 6 quốc gia có tiềm lực quân sự mạnh: Ai Cập, Syria, Jordan, Libya, Iraq và Arab Saudi, Isarel đã quyết định mở cuộc tập kích đường không Focus, bắt đầu cuộc Chiến tranh Sáu ngày.
7 giờ 45 phút sáng ngày 5-6-1967, gần 200 máy bay phản lực chiến đấu Isarel ồ ạt cất cánh tấn công phủ đầu Ai Cập. Không quân Isarel bay thấp để tránh tầm bắn của tên lửa S-75, đồng loạt tiến công phá hủy các sân bay, đài radar, trận địa phòng không của đối phương. Hơn 300 máy bay chiến đấu hiện đại của Ai Cập bị phá hủy, hơn 100 phi công Ai Cập thiệt mạng. Nhiều đài radar và trận địa phòng không bị xóa sổ hoàn toàn.
Sau đó, các lữ đoàn thiết giáp và bộ binh cơ giới Isarel đồng loạt xuất kích, tạt sườn chia cắt đội hình quân Ai Cập. Quá hoảng sợ, quân đội Ai Cập vội vã rút chạy, bỏ lại rất nhiều vũ khí. 20 bộ khí tài S-75 Dvina bị bỏ lại ở sa mạc Sinai, rơi vào tay quân Isarel. Người Mỹ nhanh chóng “mổ xẻ”, nghiên cứu khí tài tên lửa này, và đưa ra các biện pháp đối phó.
Ngày 15-12-1967, không quân Mỹ tung 44 lượt máy bay cường kích đánh phá cầu Đuống, 8 đạn tên lửa S-75 của ta bắn lên đều bị mất điều khiển, do bị đối phương dùng máy gây nhiễu ALQ-71 gây nhiễu rãnh đạn. Cũng từ đây, bắt đầu cuộc đọ sức quyết liệt giữa các chiến sĩ tên lửa Việt Nam với không lực Mỹ.
Trong tình thế vô cùng khó khăn, khi khí tài của ta đã bị đối phương nắm rõ như lòng bàn tay, bộ đội tên lửa Việt Nam chỉ còn vũ khí duy nhất là sự sáng tạo. Bằng các biện pháp thu sóng, kết hợp chụp ảnh, phía ta đã phát hiện được dải tần số và cường độ của loại nhiễu này, sau đó tiến hành “át nhiễu”, nâng công suất sóng điều khiển và sóng trả lời của đạn lên gấp ba lần, vượt qua mọi loại máy gây nhiễu của Mỹ như ALQ-71, ALQ-101, ALQ-107.
Khó khăn chồng chất khó khăn
Mọi chuyện vẫn chưa dừng ở đây. Một nhân tố quan trọng của tổ hợp tên lửa S-75 Dvina là các đài radar cảnh giới P-12 Spoon Rest, có tầm trinh sát mục tiêu lên đến 275km, sử dụng dải sóng VHF với 4 tần số phát, kháng nhiễu tương đối tốt.
Sau thất bại nặng nề trong Chiến tranh Sáu ngày, Ai Cập ráo riết hiện đại hóa quân đội để phục thù. Họ đã nhận được các đài radar P-12 từ Liên Xô. Nhưng không ngờ, phía Ai Cập đã quá mất cảnh giác, các đài radar hầu như không có hỏa lực phòng không và lực lượng bảo vệ. Ngày 26-12-1969, phía Isarel mở chiến dịch Rooster-53, dùng máy bay trực thăng và lính đặc nhiệm tập kích đánh cướp trạm radar Ras Ghareb gần kênh đào Suez, cẩu toàn bộ 7 tấn trang bị khí tài của tổ hợp radar P-12 mang về nghiên cứu.
Năm lần bảy lượt, bộ đội phòng không Việt Nam bị Ai Cập “báo hại” khi dâng toàn bộ các khí tài phòng không hiện đại nhất cho Mỹ. Tính đến năm 1970, toàn bộ các khí tài radar chủ yếu của Việt Nam đã bị Mỹ tìm hiểu, và đưa ra các biện pháp đối phó hiệu quả. Chiến tranh phá hoại lần thứ hai bắt đầu.
Các chiến sĩ thực hiện công việc nạp đạn vào bệ phóng.
Ngày 10-4-1972, B-52 ném bom rải thảm thành phố Vinh, nhưng hai ngày sau, Quân chủng Phòng không – Không quân mới biết. Ngày 13-4-1972, B-52 đánh ra Thanh Hóa, hủy diệt hoàn toàn sân bay Sao Vàng, nhưng hai tiểu đoàn tên lửa S-75 Dvina ở Thanh Hóa đều không thể phóng đạn, vì nhiễu rất nặng. Đặc biệt, ngày 16-4-1972, máy bay B-52 đánh vào thành phố Hải Phòng, hai trung đoàn 238 và 285 đã phóng lên đến 93 đạn tên lửa nhưng không diệt được chiếc B-52 nào.
Trước những thất bại liên tiếp, Quân chủng Phòng không – Không quân đã nghiêm túc kiểm điểm, tìm hiểu nguyên nhân và nhanh chóng đề ra các biện pháp củng cố lại lực lượng, trang bị khí tài, chuẩn bị những phương án đánh mới. Trong đó, phải kể đến việc sử dụng radar K8-60 của pháo cao xạ 57mm để chỉ thị mục tiêu cho tên lửa S-75 đánh B-52. Điều đặc biệt là radar K8-60 vốn có hai dải sóng 3cm và 10cm, nhưng dải sóng 3cm bị trục trặc không thể sử dụng được, nên trước đó phía ta chỉ đánh địch bằng dải sóng 10cm, giống như dải sóng của đài radar SON-9A của Liên Xô. Do đó, phía Mỹ chỉ tập trung gây nhiễu nặng dải sóng 10cm.
Điều thần kỳ đã xảy ra khi các kĩ sư quân sự Việt Nam “mổ xẻ” đài radar K8-60, quyết tâm sửa chữa dải sóng 3cm. Họ đã tìm ra rằng khi thiết kế đài radar K8-60, phía Trung Quốc đã phạm lỗi lớn ở đèn điện tử CKM-99, một bộ phận tối quan trọng, được coi như trái tim của đài phát. Chúng ta đã đặt lại chế độ làm việc cho đèn điện tử CKM-99, phục hồi thành công dải sóng 3cm. Kết quả này đã trở thành miếng võ hiểm của tên lửa S-75 Dvina, được giữ bí mật cho đến ngày mở màn Chiến dịch phòng không Hà Nội – Hải Phòng cuối tháng 12 năm 1972.
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, S-75 Dvina đã bảo vệ vững chắc bầu trời miền Bắc, bắn rơi hàng trăm máy bay địch, trong đó có “pháo đài bay” B-52.
Quá bất ngờ trước dải sóng mới của radar K8-60, không quân Mỹ bất lực không kịp tổ chức gây nhiễu. Tên lửa S-75 Dvina đã lập chiến công vang dội, tiêu diệt 29 máy bay ném bom chiến lược B-52 của địch, làm nên bản hùng ca bất diệt “Điện Biên Phủ trên không”, rửa mối nhục thua trận của loại tên lửa huyền thoại này.
Trong suốt hai cuộc chiến tranh phá hoại, đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân của Mỹ, tên lửa S-75 Dvina đã được Việt Nam cải tiến 4 lần, với 40 nội dung kĩ thuật, đảm bảo theo kịp được cuộc chiến tranh điện tử của Mỹ.
Hiện đại hóa để gìn giữ bầu trời
Cho đến hiện nay, vẫn có hàng chục tiểu đoàn tên lửa S-75 trong biên chế Quân chủng Phòng không – Không quân Việt Nam, nhưng dĩ nhiên không còn là S-75 Dvina, mà là S-75M Volga cải tiến. Việt Nam đã hiện đại hóa các tổ hợp tên lửa S-75 của mình lên chuẩn S-75M3 Volga 2, sử dụng một số thành phần kĩ thuật số của hệ thống phòng không S-300PMU1 rất hiện đại.
Ngày nay, phòng không Việt Nam chủ yếu sử dụng biến thể cải tiến S-75M Volga.
Sau nâng cấp, tổ hợp S-75M3 có nhiều tính năng tiên tiến, hoạt động tốt trong điều kiện tác chiến điện tử mạnh, khả năng kháng nhiễu tăng gấp 20 lần so với S-75 nguyên bản, đối phó tốt hơn với các mục tiêu bay thấp, giảm thời gian từ khi bám bắt mục tiêu đến khi sẵn sàng phóng từ 8 giây xuống 3 giây.
Đài điều khiển hỏa lực SNR-75M3 nâng cấp có thể bám bắt mục tiêu ở cự li 100km, và dẫn đường cho 2 tên lửa tấn công cùng lúc (trước đây chỉ có 1 tên lửa). Đạn tên lửa sau nâng cấp có tầm bắn lên đến 60km, độ cao mục tiêu tối đa 27km (trước nâng cấp là 45km và 25km). Xác suất diệt mục tiêu ở cự li 50km từ 65-98%. Đầu đạn nặng 195kg khi nổ sẽ tung ra 29.000 mảnh vụn, sát thương mục tiêu trong bán kính 65m (250m nếu ở độ cao lớn, không khí loãng).
Tuy đã cũ, nhưng tên lửa S-75 hiện đại hóa của Việt Nam vẫn là một trong những vũ khí chủ lực để gìn giữ bầu trời. Bởi suy cho cùng, sức mạnh chính của tên lửa nằm ở những bộ óc sáng tạo, những đôi tay tài hoa của các sĩ quan và trắc thủ điều khiển. Bộ đội phòng không Việt Nam đã “rửa nhục” và viết nên huyền thoại về tên lửa S-75 Dvina, chúng ta có quyền vững tin rằng: những phiên bản cải tiến của loại tên lửa năm xưa sẽ tiếp tục vươn cao để bảo vệ bầu trời Tổ quốc.
Theo Trí thức trẻ
2013-12-25 18:24:28
Nguồn: http://www.nguoiduatin.vn/viet-nam-bien-ten-lua-sam-2-thanh-rong-lua-thang-long-a119629.html