Bệnh đái dầm của trẻ em
                    Thursday, July 10, 2014 23:27
                % of readers think this story is Fact. Add your two cents.
                        
                        
                        
                    
                
Một nghiên cứu chỉ ra 22% bố mẹ có con  đái dầm nghĩ do bé lười biếng. Thực tế đái dầm không liên quan gì với sự  căng thẳng, thiếu tự tin…
 Đái dầm là rắc rối phổ biến ở trẻ em. Không phải là bệnh lý nghiêm  trọng nhưng nó khiến trẻ gặp rất nhiều khó khăn trong giao tiếp xã hội  và có thể dẫn tới sự căng thẳng cao độ trong gia đình. Tác động tâm lý  tiêu cực nhất của đái dầm là làm xói mòn lòng tự tin ở trẻ. Khi mắc  chứng bệnh này, đa số trẻ nghĩ mình có điều gì đó không ổn. Nhiều bé tin  đó là sự trừng phạt cho những suy nghĩ hay việc làm sai lầm của bản  thân. Tương tự như vậy, nhiều phụ huynh cũng tự trách mình không giỏi  làm cha mẹ.
 Cảm giác tội lỗi càng bị đẩy cao nếu bạn bè hay người thân cho rằng sự  bất ổn về tâm lý là nguyên nhân khiến bé đái dầm. Sự căng thẳng và mệt  mỏi kéo dài có thể khiến cha mẹ nổi nóng, thậm chí còn trừng phạt khi  con đái dầm. Hiểu thấu đáo nguyên nhân gây bệnh sẽ giúp cha mẹ tìm ra  những biện pháp điều trị hiệu quả.
 Đái dầm là tình trạng tiểu tiện không tự chủ trong khi ngủ. Nói  chung đái dầm ở trẻ dưới 5 tuổi không phải điều đáng lo ngại vì lúc này  trẻ vẫn đang hoàn thiện khả năng kiểm soát bàng quang.
 Nghiên cứu tại Mỹ cho thấy khoảng 9% trẻ em trong cộng đồng mắc chứng  đái dầm. Khi lên 5 tuổi, khoảng 20% trẻ em mắc chứng này, tỷ lệ giảm  xuống còn 1% ở tuổi 16. Đái dầm tự khỏi cùng với thời gian, mỗi năm  khoảng 15% trẻ thoát khỏi tình trạng này mà không cần điều trị. Tuy  nhiên, nếu không điều trị, một số trẻ sẽ đái dầm suốt đời.
 Phần lớn trẻ em giữ được khô ráo về đêm khi 3-5 tuổi. Trẻ đạt được điều  này nhờ hai cách: Thứ nhất, bàng quang gửi tín hiệu tới não nói rằng  túi đã đầy, não sẽ gửi tín hiệu ngược lại, ra lệnh cho bàng quang giãn  ra để có thể chứa thêm nước tiểu. Thứ hai nếu bàng quang không thể giữ  toàn bộ nước tiểu cho tới sáng, nó sẽ tiếp tục gửi tín hiệu tới não cho  tới khi trẻ thức dậy và đi vệ sinh. Đái dầm xuất hiện nếu trẻ chậm phát  triển một trong hai kỹ năng nói trên.
 Đái dầm được chia làm hai loại: tiên phát và thứ phát. Đái dầm tiên  phát là khi trẻ chưa bao giờ có khả năng giữ khô liên tục trong 6 tháng,  đây là dạng đái dầm phổ biến nhất. Đái dầm thứ phát là khi trẻ từng  hoàn toàn khô ráo về đêm trong 6 tháng nhưng sau đó lại đái dầm.
 Ở dạng thứ phát, điều mấu chốt là tìm kiếm những thay đổi mới xảy ra:  căng thẳng tâm lý mới xuất hiện (cha mẹ ly dị, chuyển nhà, người thân  qua đời…), thay đổi thể chất (bệnh nhiễm trùng tiết niệu hay tiểu  đường), thay đổi tình huống (thay đổi chế độ ăn uống hay thói quen đi  ngủ). Rõ ràng là có gì đó khác thường. Bước đầu tiên để giải quyết vấn  đề là tìm ra bất kỳ thay đổi nào trong cuộc đời của trẻ.
 Dưới đây là 8 nhóm nguyên nhân chính gây đái dầm:
 1. Di truyền
 Đái dầm tiên phát thường mang tính di truyền. Nếu cha và mẹ từng đái  dầm khi nhỏ, nguy cơ đái dầm của con cái sẽ là 77%. Tỷ lệ này giảm còn  44% nếu chỉ bố hoặc mẹ từng đái dầm, và còn 15% nếu không ai trong cha  mẹ từng đái dầm.
 2. Giảm dung tích chức năng bàng quang
 Ở nhóm trẻ này, thể tích bàng quang vẫn bình thường nhưng khả năng chứa  nước tiểu lại thấp hơn so với bạn bè cùng trang lứa. Ban ngày, trẻ phải  đi tiểu thường xuyên hơn, đôi khi phải chạy vội vào nhà vệ sinh để  tránh sự cố. Khả năng giữ nước tiểu qua đêm cũng thấp hơn.
 3. Tăng sản xuất nước tiểu về đêm
 Ban đêm não sản xuất một loại hoóc môn gọi là vasopressin, giúp làm  giảm lượng nước tiểu sản xuất ở thận, cho phép chúng ta ngủ tới sáng mà  không phải dậy đi tiểu. Sản xuất không đủ hoóc môn này có thể gây đái  dầm.
 4. Không thể tỉnh giấc
 Một số trẻ đái dầm không có khả năng tỉnh giấc khi bàng quang đạt dung tích tối đa.
 5. Táo bón
 Khi trực tràng bị đầy, phân có thể ép vào bàng quang, khiến cơ quan này  “hiểu nhầm” và gửi tín hiệu thần kinh tới não như khi bàng quang bị  đầy. Trực tràng đầy phân cũng làm giảm dung tích bàng quang hoặc khiến  trẻ không thể làm rỗng tối đa cơ quan này.
 6. Các yếu tố tâm lý
 Trẻ có thể bị đái dầm thứ phát sau những căng thẳng đáng kể như chuyển  nhà, chuyển trường, mất người thân, cha mẹ ly dị hay bị lạm dụng tình  dục. Đái dầm thường mất đi khi rắc rối tâm lý được xử lý. Tuy nhiên, cha  mẹ cần nhớ rằng rắc rối tâm lý không gây đái dầm tiên phát.
 7. Lạm dụng tình dục
 Lạm dụng tình dục có thể là một yếu tố gây đái dầm ở trẻ trước đó không  gặp khó khăn trong vấn đề này. Cần nghĩ tới lạm dụng tình dục nếu thấy  trẻ có các biểu hiện: nhiễm trùng tiết niệu mạn tĩnh, ra nhiều chất tiết  vì bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục, ngứa hoặc đau ở bộ  phận sinh dục.
 8. Các tình trạng bệnh lý
 Đái dầm có thể xuất hiện ở một số bệnh lý như bệnh thiếu hồng cầu hình  liềm, nhiễm trùng tiết niệu, tiểu đường và một số bệnh lý thần kinh.  Nguyên nhân này chỉ chiếm 3% trường hợp đái dầm.
 Chọn phương pháp điều trị
 Điều trị hiệu quả chứng đái dầm giúp cải thiện đáng kể sự tự tin của  trẻ. Để đạt kết quả cao, có thể phải kết hợp cả điều trị hành vi và dùng  thuốc. Đái dầm tiên phát và thứ phát được điều trị như nhau, trừ khi  xác định được bệnh lý, là thủ phạm gây đái dầm thứ phát.
 Trước khi bàn về vấn đề điều trị đái dầm, có hai điểm quan trọng cần  bàn tới. Thứ nhất, cha mẹ cần thông suốt rằng đái dầm không phải hành vi  cố ý. Thứ hai, phần lớn bác sĩ nhi khoa chỉ bàn luận vấn đề đái dầm khi  trẻ 6 tuổi hoặc hơn. Trong điều trị, quan trọng nhất là xác định xem bé  đã sẵn sàng hợp tác hay chưa, điều này đặc biệt quan trọng trong điều  trị hành vi. Nếu bé chưa sẵn sàng hợp tác, việc điều trị cần được trì  hoãn hay đơn giản hóa cho tới khi bé sẵn sàng.
 Các dấu hiệu nhận biết bé muốn thoát đái dầm:
 Phần lớn trẻ em bắt đầu tỏ ra quan tâm tới vấn đề này lúc 6-7 tuổi. Có 5  dấu hiệu nhận biết con đã sẵn sàng hợp tác để thoát đái dầm:
 - Buổi sáng khi thức giấc, bé bắt đầu nhận ra đêm trước mình bị đái dầm và không thích điều này.
 - Bé nói không muốn mặc bỉm nữa.
 - Bé nói muốn thôi đái dầm ban đêm.
 - Bé hỏi xem trong nhà có ai bị đái dầm khi còn nhỏ hay không.
 - Bé không muốn phải mặc bỉm vì đái dầm.
 Cha mẹ có thể làm gì để con bớt căng thẳng:
 - Nhắc bé rằng đái dầm chẳng phải lỗi của ai.
 - Nói với bé rằng rất nhiều bạn khác cũng có vấn đề tương tự.
 - Không phạt hay làm bé xấu hổ vì tội đái dầm.
 - Nhắc nhở các anh chị trong nhà không chế nhạo bé.
 - Kể cho bé nghe chuyện người lớn trong gia đình cũng từng đái dầm (nếu có).
 - Không làm ầm ĩ khi thấy bé đái dầm.
 - Khen ngợi khi bé giúp cha mẹ xử lý hậu quả của đái dầm: giúp mẹ thay ga trải giường, mang đồ bẩn vào phòng giặt…
 - Khen ngợi nếu bé có tiến bộ: tỉnh dậy ban đêm để đi tiểu, tè dầm bãi nhỏ hơn, ngủ qua đêm mà không tè dầm…
 Các phương pháp điều trị hành vi
 1. Hạn chế đồ uống: Hạn chế lượng nước trẻ được uống sau bữa  tối giúp giảm lượng nước tiểu sản xuất vào ban đêm. Tuy nhiên, cũng  không nên tỏ ra quá nghiêm ngặt vì bé có thể hiểu nhầm là đang bị trừng  phạt và sẽ tỏ thái độ thù địch. Cần chú ý cho bé uống đủ nước vào ban  ngày.
 2. Đánh thức bé vào ban đêm: Đánh thức và đưa bé vào nhà vệ  sinh vài giờ sau khi đi ngủ. Trong đa số trường hợp, bé sẽ nửa tỉnh nửa  mê khi đi vệ sinh. Một số bác sĩ cho rằng phương pháp này khiến tình  trạng đái dầm trở nên trầm trọng hơn, lý do là thay vì để bé học cách  nhận biết bàng quang đã đầy khi đang ngủ, phương pháp này chỉ tập cho  bàng quang tống nước tiểu ra ngoài vào khoảng thời gian nhất định mỗi  đêm. Một số bác sĩ coi đây là biện pháp đơn giản mà cha mẹ có thể áp  dụng trong khi chờ đợi bé tự thoát khỏi đái dầm.
 Cha mẹ cần chú ý khuyến khích bé chịu một phần trách nhiệm cho việc đái  dầm như đi tiểu đều đặn trước khi đi ngủ, để áo quần bị ướt vào chậu  giặt. Động viên và khen thưởng khi bé qua được một đêm khô ráo. Giúp bé  lập lịch theo dõi sự tiến bộ và dán cho bé một tấm hình ngộ nghĩnh cho  mỗi đêm không đái dầm. Tập luyện đúng cách có thể mang lại kết quả tích  cực.
 3. Điều trị bàng quang: Khuyến khích bé tăng lượng nước uống  vào ban ngày, nghĩ về cảm giác bàng quang đầy nước tiểu, đáp ứng ngay  với tín hiệu đầu tiên từ bàng quang và đái kiệt mỗi lần tiểu tiện.
 4. Đồng hồ báo thức cho trẻ đái dầm: Thiết bị này giúp  đánh thức bé khi bé đái dầm. Nó gồm 2 phần chính: bộ phận cảm nhận ẩm  ướt được cài vào quần lót và chuông để đánh thức bé. Một số thiết bị có  thêm khả năng rung, giúp đánh thức bé hiệu quả hơn.
 Khi trẻ đái dầm, nước tiểu sẽ kích hoạt bộ phận cảm biến, làm chuông  kêu to, đánh thức bé dậy đi vệ sinh. Sau nhiều tuần nghe chuông, bé học  được cách nhận biết các tín hiệu của bàng quang và tỉnh dậy trước khi  đái dầm. Bé có thể khỏi đái dầm sau 3 tháng luyện tập.
 Nghiên cứu cho thấy đồng hồ báo thức mang lại hiệu quả cao nhất, lên  tới 75%, và tỷ lệ tái phát thấp nhất so với các phương pháp điều trị  chống đái dầm khác. Một nhược điểm của phương pháp này là đòi hỏi rất  nhiều công sức của bé và gia đình. Cả nhà phải thức giấc thường xuyên  vào ban đêm trong suốt thời gian dài, điều không phải ai cũng có thể  chấp nhận.
 5. Liệu pháp tâm lý: Đây là lựa chọn cho trẻ đái dầm thứ  phát do những thay đổi hay chấn thương tâm lý trong cuộc đời, hoặc cho  trẻ quá mất tự tin vì tật đái dầm.
 Điều trị bằng thuốc
 Có một vài loại thuốc được sử dụng để điều trị đái dầm. Có thể dùng  thuốc đơn độc hoặc kết hợp với điều trị hành vi. Thuốc không mang lại  hiệu quả kéo dài và đa số trẻ đái dầm trở lại khi ngừng thuốc, vì vậy  bác sĩ thường khuyến cáo cho trẻ dùng thuốc trong thời gian ngắn, hoặc  dùng với mục đích kiểm soát triệu chứng nếu các biện pháp khác đều thất  bại.
 – Desmopressin (Minirin): Có tác dụng ức chế thận sản xuất nước tiểu;  thuốc hiệu quả ở 50% bệnh nhân. Thuốc cần được sử dụng một cách thận  trọng theo hướng dẫn của bác sĩ vì tiềm ẩn nguy cơ tác dụng phụ nguy  hiểm.
 Năm 2013, Khoa Thận Bệnh viện Nhi Trung ương đã tiến hành thử nghiệm sử dụng cho  35 trẻ đái dầm tiên phát. Kết quả cho thấy, điều trị bằng Minirin mang  lại tỷ lệ thành công cao nhất sau 3 tháng (70,8%), đau đầu xuất hiện ở  17% trẻ dùng thuốc.
 – Imipramine: Là một loại thuốc chống trầm cảm nhưng có tác động lên  bàng quang, thuốc hiệu quả ở 40% bệnh nhân. Đáng lo ngại là sự chênh  lệch quá nhỏ giữa liều hiệu quả và liều gây độc. Imipramine là một trong  những nguyên nhân phổ biến nhất khiến trẻ tử vong vì ngộ độc ở Anh. Trẻ  có thể chết vì vô tình dùng thuốc quá liều. Một số bác sĩ cho rằng  thuốc không đủ an toàn để sử dụng trong các bệnh lành tính như đái dầm.
 – Oxybutynin: Là thuốc kháng tiết cholin, có tác dụng chống co thắt,  thường được kê cho bệnh nhân có bàng quang hoạt động quá độ. Những bệnh  nhân này bị co thắt bàng quang không thể kiểm soát, phải đi tiểu liên  tục, mót tiểu đột ngột không có dấu hiệu báo trước. Trẻ có bàng quang  hoạt động quá mức thường đái dầm nhiều hơn một lần mỗi đêm và cũng đái  dầm cả ban ngày. Hiệu quả của Oxybutynin trong đái dầm không cao nhưng  nếu sử dụng kết hợp với đồng hồ báo thức hay desmopressin, nó giúp làm  thư giãn bàng quang đủ để các biện pháp kia trở nên hiệu quả hơn.
 Các biện pháp không chính thống
 Các biện pháp điều trị như châm cứu, thôi miên, dùng thuốc tolterodine,  atomoxetine không được coi là tiêu chuẩn vì chưa được nghiên cứu đầy  đủ.
 Bác sĩ nhi khoa Trần Thu Thủy
2014-07-10 22:26:12


